Rác thải nông thôn - Thực trạng và định hướng quản lý

|

Rác thải nông thôn - Thực trạng và định hướng quản lý

Việt Nam hiện có trên 62,6 triệu dân sống ở vùng nô;ng thô;n, chiếm xấp xỉ 65% dân số trong cả nước. Mỗi năm khu vực nô;ng thô;n phát sinh trên 13 triệu tấn rác thải sinh hoạt, khoảng 1.300 triệu m3 nước thải sinh hoạt, 47 triệu tấn chất thải chăn nuô;i và hơn 14 nghìn tấn bao bì hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón các loại… Tuy nhiên, theo thống kê chỉ khoảng 50% khối lượng rác thải trên được thu gom, xử lý, phần còn lại chủ yếu là chất thải rắn khó xử lý, tiềm ẩn nguy cơ gây hại cho mô;i trường và sức khỏe người dân.
 
Thực trạng rác thải vùng nô;ng thô;n

Ở nhiều vùng nô;ng thô;n trong cả nước, khô;ng khó để bắt gặp những bãi rác tự phát cạnh con đường liên thô;n, liên xã. Thậm chí, rác thải sinh hoạt còn được người dân thiếu ý thức đóng thành bao ném xuống sô;ng, trên các kênh, rạch, sô;ng su???i… Các loại rác này đang được thải ra mô;i trường nô;ng thô;n mỗi ngày mà phần lớn là chưa qua xử lý, hoặc xử lý khô;ng đạt tiêu chuẩn, gây ô; nhiễm mô;i trường. Thực trạng đó đang gióng lên hồi chuô;ng cảnh báo tình trạng ô; nhiễm mô;i trường nghiêm trọng ở nhiều vùng nô;ng thô;n trong cả nước.

Tại Bắc Ninh, theo thống kê, mỗi ngày ở vùng nô;ng thô;n thải ra gần 400 tấn rác sinh hoạt các loại mỗi ngày. Tuy nhiên, chỉ có khoảng hơn 20% số rác thải này được thu gom, tập kết vào nơi quy định để xử lý. Ở các làng nghề thuộc thị xã Từ Sơn và các huyện Yên Phong, Gia Bình… lượng rác thải từ các ngành nghề tiểu thủ cô;ng nghiệp được người dân tự do thải ra đường, cống rãnh, bờ đê, sô;ng lạch… Cả tỉnh có 125 xã, phường, thị trấn nhưng mới chỉ có ba địa phương là thị trấn Hồ (huyện Thuận Thành), thị trấn Phố Mới (huyện Quế Võ), thị trấn Chờ (huyện Yên Phong) thành lập được hợp tác xã dịch vụ - mô;i trường. Còn lại một số thô;n, cụm cô;ng nghiệp làng nghề tuy có tổ vệ sinh mô;i trường nhưng hiệu quả hoạt động rất thấp.

Tại Tuyên Quang, Sở Tài nguyên và mô;i trường cho biết, khối lượng chất thải rắn, chất thải sinh hoạt tại khu vực nô;ng thô;n phát sinh trên địa bàn mỗi ngày khoảng 202 tấn. Theo dự báo đến năm 2025, khi dân số tỉnh Tuyên Quang tăng trên 713 nghìn người, khi đó khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát thải sẽ tăng lên 285 tấn/ngày. Trong khi tỷ lệ thu gom rác thải tại khu vực đô; thị của Tuyên Quang đạt trên 96% thì tại khu vực nô;ng thô;n, tỷ lệ này chỉ đạt khoảng 30%, tương đương 60,6 tấn/ngày. Tuyên Quang hiện chỉ có 11 đơn vị thu gom, vận chuyển chất thải rắn, chất thải sinh hoạt khu vực nô;ng thô;n. Tuy nhiên những đơn vị này chưa có đủ năng lực về phương tiện cũng như nhân lực để thu gom, vận chuyển rác thải của cả khu vực nô;ng thô;n. Hầu hết ở các thô;n phải từ 2 đến 3 ngày, thậm chí có nơi 5 ngày mới thu gom một lần. Do vậy, đã dẫn đến tình trạng chất thải rắn, chất thải sinh hoạt vẫn tồn đọng trong khu dân cư. Cùng với đó, điểm tập kết chất thải rắn sinh hoạt được bố trí ở đầu thô;n, xóm, mặt đường giao thô;ng chính của xã, khô;ng được che đậy kín dẫn đến ô; nhiễm mô;i trường nghiêm trọng và làm xấu cảnh quan xóm, làng...

Tại Nghệ An, vùng nô;ng thô;n hàng ngày phát sinh ra mô;i trường gần 900 tấn rác thải. Hầu hết các chất thải này vẫn ở tình trạng lẫn lộn, bao gồm chất thải có khả năng phân hủy và khó phân hủy (nilon, thủy tinh, cành cây, xác động vật…). Riêng tại khu vực vùng sâu, vùng xa, những địa phương còn khó khăn của tỉnh vẫn còn phổ biến tình trạng xả rác thải sinh hoạt ngay tại vườn hoặc những địa điểm cô;ng cộng như chợ, đường giao thô;ng và điểm giáp ranh giữa các thô;n, xóm…

 


Ảnh minh họa: Nguô;̀n internet

 
Còn tại Vĩnh Phúc, Sở Tài Nguyên và Mô;i trường, cho biết: Mỗi ngày khu vực nô;ng thô;n trên địa bàn tỉnh thải ra mô;i trường khoảng 590 tấn rác thải nhưng khả năng thu gom, xử lý rác ở khu vực này mới đạt khoảng 69% và chủ yếu theo phương thức chô;n lấp. Nhiều địa phương như: Xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo; xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường; xã Quất Lưu, huyện Bình Xuyên; xã Ngọc Thanh, Tiền Châu, Nam Viêm, thị xã Phúc Yên... chưa có bãi rác thải tạm thời nên phải tập kết về điểm trung chuyển, sau đó thuê các cô;ng ty mô;i trường đô; thị vận chuyển đến bãi rác ở thành phố Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên để xử lý… Mặc dù, thời gian qua tỉnh Vĩnh Phúc đã tổ chức nhiều cuộc họp, hội nghị bàn bạc, đưa ra giải pháp thu gom, xử lý rác thải sinh hoạt như quy hoạch xây dựng bãi rác rộng hơn, đầu tư lò đốt rác, nhà máy xử lý rác có quy mô;, cô;ng suất lớn để giải quyết tình trạng ô; nhiễm rác thải tại địa phương... song đến nay tỉnh vẫn chưa có dự án nào chính thức được đầu tư xây dựng vào lĩnh vực thu gom, xử lý rác thải nô;ng thô;n...

Trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng hiện mỗi ngày phát sinh khoảng 650 tấn chất thải, trong đó ở khu vực nô;ng thô;n có khoảng 250 tấn. Sở Tài nguyên và Mô;i trường tỉnh Sóc Trăng cho biết, tỷ lệ thu gom rác tại khu vực nô;ng thô;n ở Sóc Trăng mới chỉ đạt khoảng gần 50%. Cùng với đó, cô;ng tác phân loại chất thải tại nguồn chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục, có nhiều nơi chất thải nhựa, nilon lẫn lộn với rác thải sinh hoạt, tình trạng ứ đọng rác thải tại các hố lưu chứa gây ô; nhiễm mô;i trường đang xảy ra ở nhiều nơi. Đặc biệt, rác thải từ các chợ ở cả khu đô; thị lẫn nô;ng thô;n cũng khiến cho ngành mô;i trường của Sóc Trăng khó khăn trong xử lý. Theo báo cáo, khu vực đô; thị và nô;ng thô;n trên địa bàn Sóc Trăng có hơn 130 khu chợ, mỗi ngày hoạt động tại các chợ phát sinh khoảng 100 tấn chất thải rắn và gần 1.000m3 nước thải. Qua kiểm tra các đơn vị chức năng cho biết, nước thải ở các chợ nô;ng thô;n và chợ tự phát đang bị ô; nhiễm hữu cơ, vi sinh; chất thải rắn khô;ng ngừng gia tăng về khối lượng, đa dạng về thành phần đang tác động xấu đến mô;i trường nước tại các sô;ng, kênh, rạch ở địa phương.

Và những bất cập trong thu gom, xử lý…

Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Mô;i trường cho thấy, lượng chất thải sinh hoạt nô;ng thô;n trong cả nước khoảng 32.000 tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom còn thấp, trung bình đạt khoảng 40 - 50% so với lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại các vùng nô;ng thô;n ven đô; hoặc các thị trấn, thị tứ cao hơn tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại các vùng sâu, vùng xa. Hiện có khoảng 71% chất thải rắn sinh hoạt vẫn chủ yếu được xử lý theo hình thức chô;n lấp, chỉ 16% được xử lý tại các nhà máy chế biến sản xuất phân compost và 13% được xử lý bằng phương pháp đốt.

Mặc dù đến nay, đã có khoảng 50% các xã trong toàn quốc thành lập tổ thu gom chất thải sinh hoạt. Tuy nhiên, việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt một số ít do cô;ng ty dịch vụ mô;i trường thực hiện, còn lại phần lớn là do các hợp tác xã, tổ, đội tự quản thu gom đảm nhiệm với chi phí thu gom thỏa thuận với người dân với mức thu thấp, khoảng 10.000 - 20.000 đồng/hộ/tháng. Với số tiền này chỉ chi trả được một phần cho hoạt động thu gom chất thải, khô;ng đủ đ?? chi trả cũng như duy trì cho hoạt động vận chuyển.

Bên cạnh đó, những bất cập trong vấn đề quy hoạch các địa điểm xử lý rác còn chưa hợp lý, dẫn đến tình trạng mỗi xã có một lò đốt chất thải, hay những bãi chô;n lấp chất thải khô;ng đảm bảo yêu cầu kỹ thuật vẫn phát sinh. Các nghiên cứu cho thấy, việc xử lý chất thải rắn tại các địa phương hiện chưa được áp dụng các phương pháp và cô;ng nghệ đảm bảo, xảy ra tình trạng ở một số địa phương, mỗi xã có một lò đốt, các lò đốt chất thải rắn sinh hoạt này hầu hết là các lò đốt quy mô; nhỏ với cô;ng suất dưới 300kg/h. Với những lò đốt cô;ng suất nhỏ cấp xã này, hệ thống xử lý khí thải khô;ng có hoặc có nhưng khô;ng đạt yêu cầu.

Mặt khác, các địa phương cũng gặp nhiều khó khăn về nguồn nhân lực, cô;ng nhân tham gia vận hành khô;ng đủ kiến thức chuyên mô;n để vận hành lò đốt, trình độ vận hành của cô;ng nhân còn hạn chế, khô;ng tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật nên chưa đáp ứng yêu cầu về bảo vệ mô;i trường.

Cô;ng tác quản lý chất thải nói chung, trong đó có chất thải sinh hoạt nô;ng thô;n hiện chưa được quan tâm đúng mức; Việc lựa chọn cô;ng nghệ xử lý phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội mỗi địa phương, từng vùng, miền còn chưa phù hợp.

Ngoài ra, hiện chưa có chính sách hỗ trợ cho các hoạt động quản lý chất thải nô;ng thô;n. Cô;ng tác xã hội hóa các hoạt động quản lý chất thải rắn sinh hoạt nô;ng thô;n gặp nhiều khó khăn do nhận thức của cộng đồng còn hạn chế. Cùng với đó, ý thức người dân về thu gom, phân loại rác thải chưa tốt cũng làm khó khăn thêm cho vấn đề về rác thải nô;ng thô;n hiện nay…

Định hướng và giải pháp trong quản lý, xử lý rác thải nô;ng thô;n

Trước thực trạng về vấn đề rác thải sinh hoạt nói chung, trong đó có vấn đề xử lý rác thải nô;ng thô;n, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 07/5/2018 về việc phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, có yêu cầu rõ việc đầu tư xây dựng mới cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở nô;ng thô;n phải đảm bảo tỷ lệ chô;n lấp sau xử lý khô;ng quá 20%. Các địa phương phải áp dụng các cô;ng nghệ tốt, hiện đại, thân thiện với mô;i trường để xử lý chất thải nô;ng thô;n. Theo đó, thời gian tới để quản lý tốt rác thải ở khu vực nô;ng thô;n, một số giải pháp được đề xuất, bao gồm:

Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý chất thải rắn, trong đó, tập trung rà soát, xây dựng, hoàn thiện và lồng ghép các quy hoạch quản lý chất thải rắn vào quy hoạch bảo vệ mô;i trường quốc gia, quy hoạch mỗi địa phương; Xây dựng và hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mô;i trường, định mức kinh tế, kỹ thuật trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn.

Thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đối với cô;ng tác quản lý chất thải rắn; Tăng cường xây dựng và triển khai các hoạt động truyền thô;ng, đào tạo, nâng cao năng lực và nhận thức cộng đồng về quản lý chất thải rắn; Xây dựng và dự kiến ban hành danh mục cô;ng nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt khuyến cáo áp dụng phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa phương, trong đó chú trọng đến các cô;ng nghệ xử lý chất thải đi kèm với các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng, hạn chế tối đa lượng chất thải phải chô;n lấp.

Về phía các địa phương: Cần rà soát lại các điểm lưu giữ chất thải sinh hoạt nô;ng thô;n để đáp ứng yêu cầu về vấn đề xử lý. Trên cơ sở rà soát lại các quy hoạch quản lý chất thải hiện có, các địa phương cần có kế hoạch, lộ trình để chấm dứt việc đầu tư xử lý chất thải rắn sinh hoạt quy mô; cấp xã, khuyến khích việc đầu tư các cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt quy mô; liên xã, liên huyện phù hợp với quy hoạch bảo vệ mô;i trường, quy hoạch tỉnh.

Đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút và khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư nghiên cứu cô;ng nghệ, xây dựng các khu xử lý chất thải tiên tiến, thân thiện mô;i trường, lựa chọn các cô;ng nghệ xử lý chất thải rắn kết hợp với thu hồi năng lượng, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội, trình độ quản lý và tập quán của từng vùng, miền của mỗi địa phương để phổ biến áp dụng.

Đặc biệt, để giải quyết tốt bài toán rác thải nô;ng thô;n, các địa phương đẩy mạnh các phương pháp thu gom, phân loại chất thải tại nguồn. Nói khô;ng với chất thải nhựa, khuyến khích sử dụng các sản phẩm thân thiện với mô;i trường. Tạo thói quen cho người dân ý thức gom rác bỏ vào nơi quy định, khô;ng vứt bừa bãi các sô;ng, kênh rạch… Phối hợp thanh tra, kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm trong xử lý chất thải rắn. Đồng thời, đẩy mạnh cô;ng tác tuyên truyền, tập huấn nâng cao năng lực nhận thức cho tổ chức, cá nhân trong việc quản lý tổng hợp chất thải rắn.

Xây dựng và thực hiện các chương trình tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật, hướng dẫn tổ chức dịch vụ, kỹ năng giám sát cộng đồng dân cư trong quản lý chất thải nô;ng thô;n… Theo đó, khi có được sự đồng lòng, thống nhất giữa người dân, cơ quan quản lý, cùng những định hướng chính sách phù hợp, triển khai đồng bộ các giải pháp thì bài toán rác thải nô;ng thô;n sẽ sớm được giải quyết./.

 
Thu Hòa
Trò chơi thẻ KM Ứng dụng giải trí