Quản lý và xử lý nước thải

|

Quản lý và xử lý nước thải

Từ nhiều năm trước, Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã có những nghiên cứu, đánh giá về tình trạng xử lý n??ớc thải tại Việt Nam tr??ớc tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng do quá trình công nghiệp hóa và tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, với những kiến nghị về các giải pháp nhân rộng cho Chính phủ nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của lĩnh vực này. Đến nay, hoạt động quản lý và xử lý n??ớc thải dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập khi cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.

Thực trạng nguồn thải, quản lý và xử lý n??ớc thải tại Việt Nam

Tại Việt Nam, sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế - xã hội đã kéo theo sự gia tăng các vấn nạn ô nhiễm môi trường, rác thải, nguồn nước, không khí… đồng thời đặt ra những yêu cầu cấp thiết cho công tác bảo vệ, xử lý, khắc phục các vấn đề này. Các Báo cáo Môi trường quốc gia của Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) giai đoạn từ năm 2013 đến nay đều đề cập đến các nguồn phát thải n??ớc thải chủ yếu từ sinh hoạt, công nghiệp, y tế và cơ sở dịch vụ, làng nghề, chăn nuôi… Trong khi đó, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thường chú trọng vào các công trình đem lại lợi ích kinh tế, còn các công trình xã hội dù vẫn được quan tâm đầu tư nhưng chưa đáp ứng được công suất yêu cầu, chưa phù hợp với tốc độ phát triển và chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.

 
Ảnh minh họa, nguồn Internet

Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2018 chuyên đề Môi trường n??ớc các lưu vực sông cho thấy, n??ớc thải sinh hoạt chiếm 30% tổng lượng thải trực tiếp dẫn ra sông. Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ, đặc biệt tại hai trung tâm kinh tế - văn hóa lớn nhất cả n??ớc là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, có số dân đông đúc với mật độ dân số đứng đầu cả n??ớc (lần lượt là 2.398 người/km2 và 4.363 người/km2, trong khi mật độ dân số trung bình cả n??ớc chỉ 290 người/km2 theo kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019) là hai vùng tập trung nhiều n??ớc thải nhất cả nước. Lượng n??ớc thải phát sinh trên 1 đơn vị diện tích ở khu vực đô thị lớn hơn nhiều so với khu vực nông thôn dẫn đến quá tải các hệ thống thoát n??ớc và tiếp nhận n??ớc thải tại các thành phố. Tính đến năm 2018, Việt Nam có 43 nhà máy xử lý n??ớc thải đô thị tập trung đang được vận hành với tổng công suất thiết kế trên 926 nghìn m3/ngày đêm. Nếu kể cả các dự án đang xây dựng, có khoảng 80 hệ thống xử lý n??ớc thải tập trung, tổng công suất thiết kế khoảng 2,4 triệu m3/ngày đêm. Mặc dù có trên 60% hộ gia đình Việt Nam đấu nối xả n??ớc thải vào hệ thống thoát n??ớc công cộng song hầu hết n??ớc thải được xả thẳng ra hệ thống tiêu thoát n??ớc bề mặt, tỷ lệ n??ớc thải được thu gom và xử lý mới chỉ đạt khoảng 13%. Ngoài ra, hệ thống thoát nước, xử lý n??ớc thải tại Việt Nam còn thiếu đồng  bộ, chưa tách biệt được hệ thống thoát n??ớc thải với hệ thống thoát n??ớc mưa khiến cho lượng n??ớc thải sinh hoạt phát sinh lớn, làm giảm hiệu quả của các dự án xử lý n??ớc thải đô thị.

Trong khi đó, truyền thông cả n??ớc vẫn thường xuyên đưa tin về các sự cố, hậu quả, tác động đến từ nguồn n??ớc thải phát sinh ở các khu công nghiệp, chủ yếu tại hai vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam. Mặc dù n??ớc thải công nghiệp đã được chú trọng kiểm soát và xử lý, đặc biệt là n??ớc thải phát sinh từ các khu công nghệp với khoảng 88% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý n??ớc thải tập trung. Tuy nhiên, chỉ có 15,8% các cụm công nghệp có hệ thống này, tình trạng nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh nằm cả trong và ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp xả n??ớc thải không qua xử lý hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn vẫn còn là thực trạng nhức nhối đối với môi trường.

Sản xuất nông nghiệp với các hoạt động canh tác, trồng trọt và chăn nuôi cũng góp phần làm gia tăng lượng n??ớc thải cần xử lý do có chứa lượng hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón cao. Ước tính mỗi năm có khoảng 70 nghìn kg và hơn 40 nghìn lít thuốc trừ sâu không được xử lý, xâm nhập vào môi trường, làm gia tăng mức độ ô nhiễm n??ớc mặt, n??ớc ngầm. N??ớc thải chăn nuôi và n??ớc thải từ hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng là những nguồn gây ô nhiễm nguồn nước, tuy nhiên hiện nay đều chưa được kiểm soát và xử lý hệ thống, n??ớc thải y tế dù khối lượng không nhiều nhưng lại chứa nhiều chất nguy hại. Bên cạnh đó hoạt động khai thác khoáng sản, n??ớc thải tại các khu vực làng nghề, làng nghề truyền thống gần như không được xử lý, vấn đề quản lý, xử lý chất thải rắn chưa được triệt để cũng góp phần gia tăng nguồn n??ớc thải…

Dù hệ thống xử lý n??ớc thải đã, đang được quan tâm đầu tư nhưng công tác thu gom n??ớc thải còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng nhiều nhà máy xử lý n??ớc thải không hoạt động hết công suất trong khi phần lớn lượng n??ớc thải lại xả thẳng ra các kênh, rạch, sông, hồ. Từ đó xảy ra tình trạng ô nhiễm nguồn n??ớc mặt cung cấp cho các nhà máy n??ớc sinh hoạt, làm gia tăng chi phí sản xuất n??ớc sạch. Theo nghiên cứu của World Bank, một trong những khó khăn trong việc vận hành hệ thống xử lý n??ớc thải là giá dịch vụ thoát n??ớc và xử lý n??ớc thải quá thấp, trung bình chỉ bằng 10% giá n??ớc sạch, trong khi khả năng thu hồi chi phí đầu tư xây dựng, chi phí vận hành và bảo dưỡng hệ thống xử lý n??ớc thải còn thấp, thậm chí một số nhà máy không đủ khả năng vận hành buộc phải đóng của, tạm ngừng hoạt động.

Hạ tầng kỹ thuật xử lý n??ớc thải thiếu đồng bộ đã không thể ngăn được tình trạng khối lượng n??ớc thải không được thu gom và xử lý được xả thẳng ra môi trường, đe dọa đến môi trường sống, nguồn nước, sức khỏe… và trở thành thách thức với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Y tế, trong số các bệnh truyền nhiễm gây dịch ở Việt Nam thì bệnh tiêu chảy (là bệnh có liên quan tới ô nhiễm môi trường nước) vẫn đứng đầu danh sách về tổng số ca bệnh bị mắc trên toàn quốc. Ô nhiễm môi trường n??ớc cũng gây những thiệt hại kinh tế không nhỏ trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và khai thác, nuôi trồng thủy sản. Thống kê sơ bộ cho thấy, từ năm 2014 đến nay, những vụ cá tôm chết hàng loạt do chất lượng n??ớc nuôi không đảm bảo dẫn đến dịch bệnh đã gây những thiệt hại rất lớn về mặt kinh tế. Nguồn n??ớc ô nhiễm cũng khiến ngành nông nghiệp bị thiệt hại nặng nề. Ô nhiễm nguồn nước, xả n??ớc thải chưa qua xử lý còn làm phát sinh các mâu thuẫn, xung đột trong xã hội, trong đó, xung đột giữa đối tượng xả n??ớc thải chưa xử lý ra môi trường và người dân chịu tác động của nguồn thải là vấn đề đang nhức nhối hiện nay tại nhiều địa phương trên cả nước.

Nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho bài toán xử lý n??ớc thải

Để đảm báo phát triển kinh tế - xã hội bền vững, trong dài hạn, việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, kỹ thuật từ khâu thu gom n??ớc thải đầu vào đến khâu xử lý n??ớc thải đầu ra là điều hết sức quan trọng. Cần xây dựng hệ thống thu gom n??ớc thải tách bạch với hệ thống thu gom n??ớc mưa bề mặt nhằm giảm áp lực lưu lượng n??ớc thải cho các nhà máy xử lý n??ớc thải. Bên cạnh đó, cần ứng dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến trong quy trình xử lý n??ớc thải tại các nhà máy để nâng cao năng suất, đảm bảo vận hành đúng, đủ công suất thiết kế; đảm bảo thực hiện đấu nối hộ gia đình trong quá trình phát triển hệ thống thoát n??ớc và xử lý n??ớc thải; xây dựng lộ trình tăng doanh thu và tiến tới thu hồi chi phí, nâng cao nhận thức của khách hàng sử dụng dịch vụ vệ sinh môi trường…

Tuy nhiên, điều Việt Nam có thể làm tr??ớc mắt là tăng cường kiểm soát nguồn thải trọng điểm nhằm giảm lưu lượng n??ớc thải cần xử lý, giảm áp lực cho các nhà máy xử lý và giảm bớt gánh nặng với môi trường. Theo các chuyên gia điều tra thực tế tại một số khu vực trọng điểm, mặc dù số lượng nguồn n??ớc thải được thống kê là rất lớn, tuy nhiên, chỉ có 15-20% là các nguồn thải trọng điểm có lưu lượng n??ớc thải lớn hoặc mức độ ô nhiễm cao. Vì vậy, việc tập trung giám sát và kiểm soát các nguồn thải trọng điểm là vấn đề ưu tiên trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư, xây dựng hệ thống giám sát quốc gia để giám sát liên tục, tự động, trực tuyến hoạt động xả thải n??ớc của các cơ sở xả n??ớc thải lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.

Kiểm soát chặt chẽ các dự án, quy hoạch, đầu tư công nghiệp, nông nghiệp, y tế, làng nghề, khai thác… với các quy đ???nh chặt chẽ về đánh giá tác hại môi trường, tuân thủ quy đ???nh xây dựng hệ thống thải n??ớc với hệ thống tiêu thoát n??ớc một cách đồng bộ, không rời rạc, tránh ô nhiễm gia tăng và có chính sách tăng mức phí xả thải đối với các đối tượng xả thải… Cần tích cực tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm nước, tái sử dụng n??ớc nhằm giảm thiểu lượng n??ớc thải trực tiếp; song song với ý thức bảo vệ môi trường.  Từ hơn 20 năm trở lại đây, Chính phủ Việt Nam đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách hoàn thiện hơn khung khổ pháp lý cho các vấn đề quản lý và xử lý n??ớc thải, cũng như đầu tư cải thiện vệ sinh môi trường. Kể từ khi ban hành tiêu chuẩn đầu tiên (TCVN 5945:1995) vào năm 1995, các quy đ???nh về chất lượng n??ớc thải sau xử lý đã nhiều lần thay đổi cho phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Nghị định 88 ban hành năm 2007 là cột mốc quan trọng đối với hoạt động quản lý n??ớc thải đô thị và khu công nghiệp do Nghị định này khắc phục nhiều vấn đề cản trở sự phát triển hiệu quả của lĩnh vực này. Bên cạnh đó phải kể đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu, Thông tư số 35/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao với những quy đ???nh về hệ thống thu gom, xử lý n??ớc thải và quan trắc n??ớc thải tự động của khu công nghiệp tr??ớc khi đi vào hoạt động.

Bên cạnh đó, Nghị định số 98/2019/NĐ-CP ngày 27/12/2019 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định thuộc lĩnh lực hạ tầng kỹ thuật trong Nghị định số 80/2014/NĐ-CP ngày 06/8/2014 về Thoát n??ớc và xử lý n??ớc thải đã được hợp nhất và có hiệu lực từ ngày 15/2/2010. Theo đó, Nghị định quy đ???nh về hoạt động thoát n??ớc và xử lý n??ớc thải tại các đô thị, các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu dân cư nông thôn tập trung; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân và hộ gia đình có hoạt động liên quan đến thoát n??ớc và xử lý n??ớc thải trên lãnh thổ Việt Nam. Trong đó có các quy đ???nh cụ thể về Đầu tư phát triển hệ thống thoát nước; Quản lý, vận hành hệ thống thoát nước; Đấu nối hệ thống thoát nước; Giá dịch vụ thoát nước; Trách nhiệm quản lý nhà n??ớc về thoát n??ớc và xử lý n??ớc thải…

Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định 53/2020/NĐ-CP ngày 05/5/2020 về quy đ???nh phí bảo vệ môi trường đối với n??ớc thải; trong đó có những điểm mới về đối tượng chịu phí cũng như mức phí. Trong đó, các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thải n??ớc thải theo quy đ???nh đi kèm là người nộp phí bảo vệ môi trường đối với n??ớc thải. Trường hợp các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thải n??ớc thải vào hệ thống xử lý n??ớc thải tập trung và trả tiền dịch vụ xử lý n??ớc thải cho đơn vị quản lý, vận hành hệ thống xử lý n??ớc thải tập trung theo cơ chế giá dịch vụ thì đơn vị quản lý, vận hành hệ thống xử lý n??ớc thải tập trung là người nộp phí bảo vệ môi trường đối với n??ớc thải theo quy đ???nh.

Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) được trình Quốc hội trong qua tại kỳ hợp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, tháng 5-6/2020, dự kiến có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 với những điểm quy đ???nh cụ thể, chặt chẽ được kỳ vọng sẽ củng cố thêm hệ thống chính sách pháp luật Việt Nam về quản lý và xử lý n??ớc thải trong tương lai./.

 
Duy Hưng
cơn sốt nhà hàng